Nhiếp ảnh nha khoa

1. Tầm quan trọng của nhiếp ảnh trong nha khoa

Với sự ra đời của nhiếp ảnh kỹ thuật số, nha sĩ đã có được một phương pháp mới để giao tiếp với bệnh nhân, đó là dùng hình ảnh để mô tả các tình trạng của BN. Ngoài ra, việc kết hợp các hình ảnh cũng giúp tạo các lựa chọn điều trị và thậm chí có thể dùng các trường hợp bệnh nhân khác để làm ví dụ. Hiện nay, trong một vài phút, có thể cho bệnh nhân xem trước của kết quả làm trắng răng, làm dài hoặc ngắn răng, để mô tả kết quả có thể đạt được với chỉnh nha hoặc mặt dán sứ .

Gần đây, lập kế hoạch kỹ thuật số đã trở thành một công cụ quan trọng. Kiến thức chuyên môn về các nguyên tắc thẩm mỹ răng hàm mặt và các công cụ công nghệ kỹ thuật số, như phần mềm Power Point® (Microsoft Office, Microsoft, Hoa Kỳ) và Keynote® (Apple Inc., Hoa Kỳ), cho phép lập kế hoạch khả năng dự đoán và bảo mật, cũng như trao đổi trước với bệnh nhân và phòng lab về các khả năng. (Hình 1). Một phân tích đầy đủ về chức năng của bệnh nhân cũng như những kỳ vọng chủ quan của họ là quan trọng nhất ngoài việc lập kế hoạch thẩm mỹ.

Trong hình ảnh này, chỉ có thể thiết kế chiều rộng và dài của răng cửa giữa (màu xanh lá). Còn những răng còn lại (răng cửa bên và răng nanh) bị xoay trong ảnh nên không thể thiết kế đầy đủ

Để phục hồi chức năng thích hợp, việc lập kế hoạch cần phải tích hợp các khái niệm thẩm mỹ, để có được sự hài hòa giữa khuôn mặt và răng, bao gồm môi và nụ cười, cụ thể là kích thước, hình dạng và vị trí của từng răng và mối quan hệ của chúng với xương ổ răng cũng như mô nướu.

Thế giới hiện đại đang hướng tới tốc độ và sự tiện lợi, mọi người đang tìm kiếm càng nhiều thông tin trong thời gian ngắn nhất. Trong bối cảnh này, hình ảnh có một vai trò quan trọng. Một bức ảnh được chụp tốt có thể diễn tả một cách sâu sắc và có khả năng thuyết phục nhanh hơn lời nói. Nhiếp ảnh không chỉ được sử dụng để làm tài liệu chuyên môn và bảo mật pháp lý, mà nó đã trở thành một công cụ không thể thiếu trong Nha khoa thẩm mỹ để cung cấp những hình ảnh ghi lại cảm xúc tức thời của bệnh nhân và giúp bệnh nhân đưa ra quyết định hơn nữa.

Liên quan đến các mô hình nghiên cứu, khám lâm sàng và chụp X quang, các bức ảnh chụp mặt, răng-môi và trong miệng được sử dụng như một phương pháp phụ trợ trong chẩn đoán và là cần thiết để đạt được một kế hoạch điều trị thẩm mỹ, chức năng và sinh học. Nó cũng là một phương tiện giao tiếp tuyệt vời với bệnh nhân và phòng lab, đồng thời cung cấp dữ liệu như sự liên quan của khuôn mặt, môi, nướu và răng, cũng như thông tin về hình dạng, màu, đường viền và chức năng. Tất cả điều đó cho phép thực hiện các công việc phục hồi một cách đẹp mắt nhất. Ngoài ra, hồ sơ chụp ảnh tạo điều kiện thuận lợi cho việc so sánh “trước / sau” và tạo các bảng, bài báo, cũng như tài liệu về quy trình, vật liệu và các bộ phận phục hình cũng như cái nhìn cận cảnh trên răng tự nhiên.

2. Chụp ảnh nha khoa

Mặc dù công nghệ chụp ảnh kỹ thuật số có nguồn gốc từ những năm 1970 và máy ảnh kỹ thuật số đầu tiên được đưa vào thị trường vào những năm 1990, việc sử dụng lâm sàng công cụ này trong phòng nha chỉ trở thành hiện thực vào đầu thế kỷ XXI. Khả năng hiển thị hình ảnh ngay lập tức, loại bỏ chi phí về phim cũng như phát triển và hệ thống hóa việc quản lý hình ảnh trong phòng khám là một số ưu điểm so với hệ thống thủ công.

Chúng ta có thể định nghĩa: nhiếp ảnh là quá trình thu được hình ảnh từ ánh sáng được chụp bởi một ống kính (thường được gọi là thấu kính, nhưng thực chất được tạo thành bởi một bộ thấu kính). Trong nhiếp ảnh kỹ thuật số, các photon (“hạt” năng lượng) của ánh sáng thúc đẩy phản ứng điện tử lên một cảm biến kỹ thuật số (CCD – thiết bị tích điện), nằm trong thân máy ảnh. Các tín hiệu điện này sau đó được ghi lại thành từng bit trong thẻ nhớ và có thể được lưu trữ và thao tác với máy tính. (Hình 2)

 

Nói tóm lại, học cách chụp có nghĩa là hiểu và nắm vững nghệ thuật chụp và xử lý ánh sáng. Ba tính năng của đầu vào ánh sáng phải được cân bằng trong máy ảnh để ghi lại hình ảnh “trung thực”: số lượng (photon), thời gian và độ nhạy. Mối quan hệ giữa ba yếu tố này, tức là khoảng thời gian mà một lượng ánh sáng sẽ đến một cảm biến có độ nhạy xác định trước, được gọi là độ phơi sáng.

Lượng ánh sáng thu được sẽ được xác định bởi một màng chắn, là một loạt các lưỡi kim loại nằm bên trong vật kính và được điều khiển bởi các lệnh từ thân máy. Các cánh này tạo thành một lỗ trung tâm có thể điều chỉnh được mà qua đó ánh sáng sẽ tới cảm biến. Đường kính khẩu độ được biểu thị bằng số phân số, quy ước được gọi là số f. Vì số f là một phân số, nên số f càng thấp thì khẩu độ càng lớn: khẩu độ f / 2.8 có đường kính lớn hơn nhiều và cho phép thu được lượng ánh sáng lớn hơn khẩu độ f / 22.

 

Khi sử dụng độ mở lớn (ví dụ: f / 1.8 hoặc f / 2.8), hình ảnh được tạo ra với độ sâu trường ảnh thấp hơn, tức là một vùng nhỏ của ảnh sẽ được “lấy nét” tốt hoặc khá rõ ràng và mọi thứ ở phía trước hoặc phía sau vùng đó sẽ bị “mờ”. Độ sâu trường ảnh nhỏ được sử dụng rộng rãi trong ảnh chân dung ngoài trời vì “độ mờ” của phần không liên quan làm nổi bật đối tượng được chọn, nhưng rất không mong muốn đối với chụp ảnh nha khoa, vì chúng ta cần có được hình ảnh rõ ràng trong toàn khoang miệng. Khi chúng ta giảm khẩu độ (tăng số f), chúng ta sẽ có được độ sâu trường ảnh lớn hơn. Các giá trị khẩu độ trung gian (f / 8 đến f / 13) được quan tâm đối với chụp ảnh phong cảnh, trong đó độ sắc nét do khẩu độ cung cấp được phân phối, cho phép nhìn thấy các đối tượng được chụp.

Khẩu độ cực nhỏ (f / 22 đến f / 32) là mong muốn cho chụp ảnh lâm sàng, để chúng ta  có thể làm nổi bật và quan sát rõ ràng răng trước và răng sau, cũng như các cấu trúc khác có liên quan. (Hình 3a-d) Để thực hiện các bức ảnh ngoài mặt, khẩu độ trung bình (f / 11 đến f / 13) tạo ra độ sâu trường ảnh đủ.

 

Thời gian tiếp xúc của cảm biến với ánh sáng được xác định bởi màn trập, một thiết bị cơ học nằm bên trong thân máy, đối diện với cảm biến kỹ thuật số. Màn trập hoạt động như một cửa sổ và mở trong một khoảng thời gian cố định cho phép ánh sáng đi qua vật kính tiếp cận với cảm biến. Thời gian có thể được biểu thị bằng giây (1 ”, 5”, 30 ”) hoặc phần nhỏ của giây (1 / x: ví dụ: x bằng 100 là 1/100 hoặc một phần trăm giây). Thời gian phơi sáng càng ngắn, lượng ánh sáng chiếu vào cảm biến càng ít. Trong thực tế, điều này có nghĩa là, nếu tất cả các biến khác được giữ không đổi, thời gian phơi sáng càng ngắn, ảnh càng tối.

Vì độ mở khẩu cần thiết cho chụp ảnh lâm sàng là rất nhỏ, nên cần phải chụp trong một khoảng thời gian dài để có được hình ảnh với độ phơi sáng cân bằng, nhưng trong thời gian này, cả chuyển động (rung lắc) của người chụp và bệnh nhân sẽ được ghi lại trên hình ảnh. Vì lý do này và các lý do khác được thảo luận dưới đây, cần sử dụng nguồn sáng bổ sung (đèn flash) có chức năng bổ sung ánh sáng cho môi trường chụp ảnh, để có thể sử dụng cả khẩu độ mở nhỏ trong những khoảng thời gian khá nhỏ. Khoảng thời gian được khuyến nghị để chụp ảnh nha khoa là 1 / 125s. (Hình 4a và 4b)


Các bức ảnh cùng khung cảnh với tốc độ chụp khác nhau. Ảnh a chụp ở tốc độ 1/8s nên vẫn thu được hình ảnh các vật thể không bị biến dạng quá mức. Ảnh b chụp ở tốc độ 1s nên hình ảnh các xe đang chuyển động cũng được thu vào tạo các vệt sáng.

 

Độ nhạy của cảm biến được xác định bởi ISO, được biểu thị bằng các giá trị số, thường từ 100 đến 3200. Giá trị càng nhỏ, cảm biến càng kém nhạy và càng ghi ít ánh sáng, nhưng mặt khác, cho ra hình ảnh sắc nét hơn. Khi các giá trị ISO cao hơn được sử dụng, có thể quan sát thấy một thứ gọi là nhiễu, giống như hàng triệu chấm màu nhỏ đã tạo nên toàn bộ hình ảnh. (Hình 5a và 5b) Các giá trị ISO cao hơn được sử dụng trong điều kiện ánh sáng yếu; ví dụ, trong môi trường tối hoặc vào ban đêm, không sử dụng đèn flash. Trong Nha khoa, số ISO được sử dụng phải càng thấp càng tốt (100 đến 200), để tạo ra mức độ nhiễu thấp nhất. Bởi vì khẩu độ được sử dụng sẽ rất nhỏ, điều này chỉ có thể đạt được bằng cách sử dụng đèn flash.

Ảnh a chụp với ISO cao nên bị nhiễu nhiều hơn so với ảnh b (được chụp ở ISO thấp)

Một thông số quan trọng khác của nhiếp ảnh là cân bằng trắng (WB), được định nghĩa một cách đơn giản là phép đọc màu do máy ảnh thực hiện. Việc đọc này có thể tự động hoặc thủ công. Khi cân bằng trắng tự động, với sự thay đổi của ánh sáng xung quanh, có thể có sự thay đổi đối với cách máy ảnh diễn giải và ghi lại màu sắc. Để có được hình ảnh có cùng kiểu màu và để kiểu này giống với tự nhiên nhất có thể, bạn nên sử dụng cân bằng trắng luôn ở chế độ “flash” hoặc “ánh sáng ban ngày” hoặc đặt ở mức 5.600 K. Sự khác biệt khi điều chỉnh WB xảy ra do sự khác biệt trong cài đặt ban đầu của thiết bị cũng như việc xây dựng các cảm biến thu nhận ánh sáng. Nếu WB không được định mức chính xác, hình ảnh có thể trở nên “ấm hơn” hoặc hơi vàng. Lý tưởng nhất, điều chỉnh tối ưu là ở chế độ Kelvin (5.600 ºK), đây là chế độ trung thực nhất với màu sắc, tuy nhiên ở các máy ảnh không có điều chỉnh WB này, sự khác biệt này có thể được bù đắp bằng cách điều chỉnh bản đồ màu của nó. Đến lượt nó, điều này sẽ bù cho việc đọc màu bằng cách tăng hoặc giảm nhiệt độ của nó, từ xanh lam sang vàng hoặc từ đỏ sang xanh lục. (Hình 6a-h)

a. Ảnh ở WB 5600 là phù hợp để chụp ảnh răng
b. Nhiệt độ thấp làm răng ngả màu vàng (khi chụp cùng với đèn flash)
c. WB cloudy: nhiệt độ màu cao, tầm 9600 sẽ làm xanh bức ảnh. Tuy nhiên ảnh này chụp với flash nên làm cho răng hơi vàng.
d. WB flash: chế độ này có thể hơi khác nhau ở từng nhà sản xuất nên làm cho màu răng có 1 số sự biến đổi. Đối với Nikon, chụp ảnh Nha khoa có thể dùng chế độ này; tuy nhiên ở máy Canon thì màu răng sẽ hơi vàng
e. WB daylight: gần nhất với nhiệt độ lý tưởng 5600K, khi máy không có chế độ set nhiệt độ màu thì có thể dùng mode này
f. WB Fluorescent: chế độ này kèm đèn flash sẽ cho ra ảnh răng có màu xanh
g. WB Incandescent: Ở chế độ này, với đèn flash sẽ cho ra màu ở giữa màu xanh lá và màu vàng.
h. WB auto: khi đi kèm với đèn flash, nó sẽ cho ra màu gần giống với chế độ WB flash

3. Lựa chọn thiết bị cho chụp ảnh nha khoa

Thân máy lý tưởng cho Nha khoa được gọi là Máy phản xạ ống kính đơn kỹ thuật số (DSLR), cho ống kính có thể hoán đổi cho nhau. Trong máy ảnh compact, ống kính và thân máy được kết hợp với nhau, tạo thành một cấu trúc duy nhất. (Hình 7a) Mặc dù dễ sử dụng và giá cả phải chăng, việc sử dụng chúng chỉ giới hạn ở mục đích sử dụng chuyên dụng, vì loại máy ảnh này không cho phép sử dụng các ống kính khác hoặc đèn flash ngoài, ngoài ra còn có những hạn chế liên quan đến các cài đặt cụ thể cho Nha khoa.

Có rất nhiều thân máy ảnh DSLR khác nhau có sẵn trên thị trường và thường xuyên có các bản cập nhật về mẫu mã. Sự khác biệt giữa thiết bị chuyên nghiệp rẻ nhất và đắt nhất chủ yếu là về công nghệ được sử dụng cho cảm biến, cũng như các chức năng giúp sử dụng dễ dàng hơn, chẳng hạn như cắt hình ảnh, điều chỉnh màu sắc, độ tương phản, độ bão hòa, độ sáng, kết cấu và độ sắc nét, những tính năng mà trước đây chỉ có thể thực hiện được thông qua việc sử dụng máy tính cá nhân. Hơn nữa, phần thân của thiết bị thường có khả năng chống chịu cao hơn.

a. Máy ảnh compact (không phù hợp chụp ảnh Nha khoa). (b) Máy ảnh DSLR cùng với flash chuyên dụng. (c) EyeSpecial® II (Shofu, Japan) chuyên cho sử dụng trong nha khoa.

 

Thiết bị DSLR có ít nhất 18 megapixel, độ phân giải này là quá đủ để chụp ảnh nha khoa. (Hình 7b). Quan trọng nhất trong việc lựa chọn thiết bị chụp ảnh nha khoa là lựa chọn ống kính và đèn flash. Chất lượng hình ảnh được xác định bởi chất lượng của ống kính và chất lượng của cảm biến máy ảnh. Thân máy càng đắt tiền thì cảm biến của chúng càng tốt. Khi đó, chúng ta sẽ có được hình ảnh đáng tin cậy mà không bị biến dạng ở các đối tượng được chụp. Điều này chỉ có thể thực hiện được với các ống kính có tiêu cự trên 90 mm. Độ dài tiêu cự là khoảng cách giữa điểm hội tụ ánh sáng trong thấu kính đầu tiên trên vật kính, đến cảm biến chụp ảnh. Các ống kính có tiêu cự từ bình thường đến rộng (tương ứng 10 mm đến 55 mm) thường gây ra hiện tượng méo hình đối tượng được chụp. Cũng cần lưu ý rằng răng là vật thể nhỏ, sẽ được chụp ảnh ở khoảng cách ngắn, chỉ khi sử dụng ống kính loại macro. Ống kính macro cho phép tiếp cận các vật thể, tương tự như kính lúp, mà không cản trở việc chụp ảnh ở khoảng cách xa. Các ống kính macro 100 mm và 105 mm, được bán bởi Canon® (Nhật Bản) và Nikon® (Nhật Bản), là những ống kính phù hợp nhất để chụp ảnh trong miệng (răng) và ngoài mặt (nụ cười và khuôn mặt). (Hình 8a và 8b)

Figure 8. 100mm (Canon®) e 105mm (Nikon®) macro lenses, which can be adapted to DSLR machines for clinical photograph.
Figure 9. Flashes for macro photography available for dental photography: ringflash (a-b) and twin (c-d).

 

Loại đèn flash phù hợp nhất là loại đèn flash đặc biệt để chụp ảnh macro. Nó được thiết kế riêng đặt ở đầu ống kính, nằm ngay bên cạnh đối tượng được chụp, và bởi vì nó có ít nhất hai nguồn sáng (ringflash hoặc đèn đơn – punctual) nên có rất ít hoặc không có sự hình thành bóng. Đèn twin flash hoặc đèn đèn đôi – bipunctual là khó để kiểm soát nhất, nhưng nó có thể cung cấp khả năng chụp chi tiết, texture và volume tốt hơn, đặc biệt nếu sử dụng tản sáng. Tiến bộ công nghệ nhanh chóng và phát triển đã làm cho thiết bị này ngày càng có giá cả phải chăng. (Hình 9a-d).

Trong số các chế độ chụp khác nhau, chụp ảnh nha khoa lâm sàng là một trong những chế độ thực tế và trực tiếp nhất, đòi hỏi thiết bị và kỹ thuật cụ thể gần như được tiêu chuẩn hóa để thực hiện chụp. Suy nghĩ về điều đó, thiết bị chụp ảnh EyeSpecial® II (Shofu, Nhật Bản), được phát hành vào năm 2014, kết hợp phần lớn các đặc điểm của DSLR với các ưu điểm của một máy nhỏ gọn, tạo điều kiện chụp ảnh chất lượng chuyên nghiệp tương tự như ảnh thu được bằng thiết bị DSLR (Hình 7c). Với các chế độ chụp được lập trình sẵn cũng như được xác định theo loại hình ảnh muốn chụp, thiết bị này làm nhiếp ảnh lâm sàng không còn quá bí ẩn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chụp và lưu trữ hồ sơ nha khoa, đồng thời duy trì tiêu chuẩn cao về chất lượng hình ảnh để lập kế hoạch phục hồi thích hợp – tức là là một giải pháp thay thế tuyệt vời cho các bác sĩ không có ý định nghiên cứu và học cách sử dụng kỹ các thiết bị máy ảnh chuyên nghiệp. Cấu trúc của một quy trình chụp ảnh lâm sàng thu được cho phép tổ chức nha khoa một cách có hệ thống, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các kỹ thuật chụp ảnh cũng như việc lưu trữ và sử dụng các hình ảnh.

4. Protocol chụp ảnh trong Nha khoa

Các bức ảnh cần có trong chụp ảnh Nha khoa (theo tác giả của quyển sách này)

Đầu tiên, điều quan trọng là phải đảm bảo chất lượng của những bức ảnh được chụp và quan tâm đến những gì nên hoặc không nên chụp trong bức ảnh. Tốt nhất là bệnh nhân không nên đeo những đồ trang sức thu hút sự chú ý của người xem, chẳng hạn như vòng cổ, hoa tai, kiểu tóc hoặc son môi có màu mạnh. Trường hợp tóc dài thì phải buộc bằng thun hoặc hất ra sau vai.

Mỗi răng phải ít hoặc không có nước bọt và không được có các hiệu ứng khác gây mất tập trung. Các thủ thuật như lấy dấu, điều chỉnh khớp cắn và các thủ thuật khác có thể để lại dấu hoặc điểm trên răng hoặc da của bệnh nhân thì nên được thực hiện sau khi chụp. Trong trường hợp các mô nướu bị viêm và / hoặc bị nhiễm trùng, cũng như sự hiện diện của các vết bẩn, mảng bám và vôi răng bên ngoài, cần chụp hình sau khi bệnh nhân được vệ sinh răng miệng và đáp ứng tốt thông qua việc kiểm soát các quá trình viêm, ngoại trừ trường hợp cần chụp hình ảnh của các tình trạng lâm sàng này.

Nha sĩ chịu trách nhiệm lựa chọn những bức ảnh được thực hiện trong quy trình chụp ảnh. Quy trình cơ bản được khuyến nghị bao gồm chụp ảnh khuôn mặt với môi khép, khuôn mặt với môi ở trạng thái nghỉ, khuôn mặt khi cười, răng-môi ở trạng thái nghỉ, trước và bên khi cười, khớp cắn trong miệng (phía trước và bên), khớp cắn hàm trên và dưới với gương, răng trước có nền đen và ảnh chụp có bảng so màu. Rất thú vị khi chụp theo tiêu chuẩn và điều chỉnh các thiết bị để thuận tiện trong việc chụp trong tương lai. (Bảng 1)

Việc tạo ra 1 giao thức chụp ảnh Nha khoa cần có các thiết bị như sau:

1. thiết bị và phụ kiện máy ảnh kỹ thuật số chuyên nghiệp (ví dụ: máy ảnh Nikon D600®, ống kính AF-S Micro NIKKOR® 105mm f / 2.8 và đèn flash đôi Nikon SB-R200® (Hình 11a);

2. dụng cụ banh miệng (ví dụ như dụng cụ thu gọn môi và má hình chữ “C” và “V” của người lớn) (Hình 11b-d);

3. bộ tương phản để chụp ảnh (ví dụ: Flexipalette®, Smile Line, Thụy Sĩ) (Hình 11e-g);

4. bộ gương (ví dụ, gương pha lê hoặc gương kim loại) (Hình. 11h); và

5. Bộ dụng cụ cơ bản để dự phòng và loại bỏ nhiễm màu ngoại sinh.

4.1. Chụp ảnh ngoài mặt

Những hình ảnh đầu tiên được thực hiện trong quy trình chụp ảnh là ảnh chụp ngoài mặt, vì cây banh miệng và gương để chụp trong miệng có thể để lại dấu trên da của bệnh nhân và làm giảm chất lượng của hình ảnh ngoài mặt. Có hai loại ảnh ngoài mặt chính: khuôn mặt, cận cảnh của mặt dưới – hoặc chụp răng – môi.

4.1.1. Ảnh khuôn mặt

Đối với ảnh khuôn mặt, khẩu độ nên được đặt từ 11 đến 13, thời gian phơi sáng nên được đặt ở 125 (1/125 giây) và ISO (độ nhạy của cảm biến ánh sáng), từ 100 đến 200, để ít nhiễu hơn. Cân bằng trắng nên được điều chỉnh thành chế độ đèn flash hoặc ánh sáng ban ngày hoặc tùy chọn 5.600 ºK. Đèn flash phải được đặt ở chế độ “thủ công” và công suất ½, nhưng nó cũng có thể được sửa đổi bằng cách sử dụng tản sáng. Ảnh phải bao gồm đầu, cổ và một phần ngực của bệnh nhân, không mở rộng quá nhiều đến vùng cổ.

Mặt nhìn từ phía trước

Hình ảnh chính diện phải được chụp với bệnh nhân ở tư thế thẳng,máy ảnh được đặt vuông góc với mũi bệnh nhân, để tạo điều kiện thuận lợi và chuẩn hóa việc thu được một góc thẳng đứng không đổi trong quá trình chụp ảnh “trước” và “sau”. Một cách để tránh biến dạng ảnh là đặt cả bệnh nhân và nhiếp ảnh gia đứng hoặc ngồi, lý tưởng nhất là trên cùng một mặt phẳng nằm ngang. Đầu của bệnh nhân phải được định vị sao cho mũi của họ được đặt ở tâm, đường nối đồng tử song song với mặt phẳng ngang để ngăn ngừa BN nghiêng đầu theo chiều dọc và mặt phẳng Frankfurt càng song song với mặt phẳng ngang càng tốt, để tránh nghiêng đầu theo chiều ngang và do đó gây ra biến dạng. Nền của hình ảnh phải có màu trung tính và đồng nhất.

Trong những hình ảnh này, cùng với đường giữa khuôn mặt (dọc), một số đường ngang được vẽ để phân tích khuôn mặt của bệnh nhân được thực hiện bằng cách quan sát các đặc điểm sau:

• đường tóc (ngang);

• đường chân mày (ngang);

• đường giữa hai cánh mũi (ngang); và

• mentus base line (ngang).

Hình ảnh chính diện của khuôn mặt bệnh nhân ở các vị trí khác nhau phải được phân tích toàn diện hơn về khuôn mặt – với môi đóng, môi ở trạng thái nghỉ và cười.

a) Môi đóng (Hình 10a).

Trong hình ảnh khuôn mặt ban đầu này, bệnh nhân nên ở tư thế với môi đóng lại.

b) Môi ở trạng thái nghỉ (Hình 10b và 12).

Ảnh phải hiển thị khuôn mặt của bệnh nhân với đôi môi hơi hé mở trong tư thế nghỉ ngơi.

c) Cười (Hình 10c).

Hình ảnh bệnh nhân có nụ cười tự nhiên mà không cần mở miệng như trong “cười hở lợi” và môi không bị kéo căng hay méo mó. Ảnh này phải được thực hiện nhanh chóng ngay tại thời điểm bệnh nhân nở nụ cười, vì rất ít người có thể duy trì môi ở vị trí trong hơn một vài giây. Tuy nhiên, nên ảnh của nụ cười nhiều tối đa, vì có thể chụp ở các mức độ khác nhau, mỗi ảnh chứa thông tin có giá trị cho việc lập kế hoạch thẩm mỹ, giúp bạn có thể ó nhiều lựa chọn.

Trong bức ảnh này, việc sử dụng cung mặt kỹ thuật số được khuyến khích để phân tích và tham chiếu thẩm mỹ, được tạo bởi các đường sau (Hình 13):

• đường giữa khuôn mặt;

• các đường của cánh mũi; và

• đường cạnh cắn.

Các tài liệu đều thống nhất về tầm quan trọng của sự song song giữa các đường ngang của khuôn mặt để có sự hài hòa và thẩm mỹ, đồng thời chúng cũng phải vuông góc với đường giữa.

Những đường này là:

• đường giữa hai mắt: đi qua trung tâm của con ngươi ở cả hai mắt;

• đường chân mày: đi qua lông mày;

• đường viền môi: chạm vào khóe môi ở cả hai bên;

• mặt phẳng nhai: tiếp tuyến với các cạnh cắn;

• đường viền răng bên cạnh: đường viền răng bên trong của sáu răng trước; và

• đường mentus: tiếp tuyến với đáy của mentus. (Hình 14)

Mặt nhìn ngang (Hình 10d-f)

Các tham chiếu được lấy từ mặt trước và sau đó sẽ được dùng khi chụp mặt nghiêng, từ cả bên phải và bên trái: môi đóng, môi ở trạng thái nghỉ và cười. Điều quan trọng cần lưu ý là đầu bệnh nhân phải hoàn toàn sang một bên, điều này tạo ra một đường nhô trên khuôn mặt. Không được nghiêng đầu bệnh nhân theo chiều dọc hoặc ngang và vị trí tham chiếu đã đề cập trước đó phải được quan sát. Trong ảnh mặt nghiêng của bệnh nhân, ba điểm được xác định: glabella, dưới mũi và pogonion. Góc được tạo thành bởi sự kết hợp của ba điểm này sẽ xác định hình dạng mặt của bệnh nhân là bình thường, lồi và / hoặc lõm. (Hình 15a)

Các tham chiếu mặt nghiêng khác được sử dụng để đánh giá sự hài hòa của khuôn mặt và kết quả của nó, chẳng hạn như:

• Đường E: nối đầu mũi với chóp cằm; (Hình 15b)

• góc mũi môi; và (Hình 15c)

• đường thẳng đứng thực sự: một đường thẳng đứng hoàn hảo được vẽ tiếp cận mặt bệnh nhân ở góc mũi môi và lý tưởng nhất là phải cách mũi 8 mm đến 10 mm, môi trên là 2 mm đến 5 mm, môi dưới từ 0 đến 3 mm, và môi dưới phải lên đến 4 mm. (Hình 15d)

Cả đường E cũng như góc nasiolabial có thể bị thay đổi đáng kể sau khi điều trị phục hình.

4.1.2. Ảnh răng – môi

Đối với nhóm ảnh này, nên đặt khẩu độ cao hơn, từ 22 đến 32 và sử dụng thời gian phơi sáng, cũng như ISO cho các ảnh giống nhau (tương ứng là 1/125 giây và 100/200). Cân bằng trắng cũng sẽ được điều chỉnh thành đèn flash, ánh sáng ban ngày hoặc 5.600 ºK. Công suất đèn flash lúc này có thể từ ½ đến ¼ trong chế độ “thủ công”. Khung hình nên bao gồm phần nền mũi, má và cằm, và toàn bộ miệng của bệnh nhân. Trung tâm của hình ảnh này thay đổi tùy theo các vị trí bệnh nhân khác nhau.

a) Môi lúc nghỉ (Hình. 10g)

Ảnh lúc nghỉ nhằm đánh giá mức độ tiếp xúc của răng với môi lúc nghỉ, đặc biệt là các răng cửa giữa hàm trên, môi phải hơi hé ra và phần môi trên ở giữa ảnh. (Hình 16)

b) Nụ cười tối đa (Hình. 10h)

Ảnh phải thể hiện nụ cười hết cỡ, môi nở nụ cười tự nhiên, không mở miệng như đang “cười” và không bị kéo căng hoặc nhếch môi. Cũng như chụp mặt, việc này nên được thực hiện ngắn gọn và lặp đi lặp lại, nhằm ghi lại nụ cười tự nhiên và tự nhiên nhất của bệnh nhân. Tuy nhiên, nhân trung môi trên phải được đặt ở trung tâm của bức ảnh và mặt phẳng cắn răng cửa hàm trên (xếp song song với đường nối 2 đồng tử) phải được đặt theo chiều ngang ở trung tâm của bức ảnh. Nếu có bất kỳ sự khác biệt nào về đường giữa, độ nghiêng của nụ cười hoặc mặt phẳng răng cửa, thì sự bất đối xứng này nên được tái tạo. (Hình 17)

Trong bức ảnh này, việc phân tích các đặc điểm thẩm mỹ sau có thể được thực hiện:

• đường cười;

• hành lang;

• độ cong răng cửa; và

• đường cong của môi dưới.

c) Nụ cười tối đa chụp từ mặt bên (Hình 10i)

Với các đặc điểm tương tự như khi chụp nụ cười tối đa từ phía trước, ảnh cười chụp từ phía bên phải có cùng góc thẳng đứng với các bức ảnh chụp chính diện, với răng cửa bên hàm trên nằm ở trung tâm trong bức ảnh, có thể thấy các răng cửa giữa và răng cửa bên đối diện. Trong trường hợp nụ cười rộng, các răng nanh đối diện cũng có thể nhìn thấy được. Bức ảnh này nên được chụp từ cả hai bên miệng của bệnh nhân. Trong hình ảnh này, có thể đánh giá bên cạnh các điều kiện tương tự được mô tả đối với ảnh chụp răng / môi phía trước.

4.2. Ảnh trong miệng

Các bức ảnh trong miệng được chụp với cùng cài đặt được sử dụng cho mặt dưới: khẩu độ f / 22 đến f / 32, tốc độ 1/125 giây, ISO 100 hoặc 200, cân bằng trắng được đặt thành đèn flash, ánh sáng ban ngày hoặc 5.600 ºK, và công suất đèn flash được đặt từ ½ đến ¼ ở chế độ “thủ công”.

a) Ảnh khớp cắn từ phía trước (Hình 10j)

Hình ảnh này phải được chụp với cây banh miệng để có thể nhìn thấy toàn bộ phần nướu của tất cả các răng. Bệnh nhân nên nằm để cho trục ảnh vuông góc với đối tượng, với mặt phẳng đứng dọc song song với phương thẳng đứng và mặt phẳng khớp cắn song song với đường viền ngang của ảnh.

b) Ảnh mặt bên của khớp cắn (Hình 10k)

Các răng hàm trên và hàm dưới nên nên được cho cắn lại. Lượng nướu tối đa sẽ có thể nhìn thấy được, như trong ảnh chụp môi với cây banh miệng. Răng cửa bên hàm trên phải là trung tâm của hình ảnh cũng như răng cửa giữa bên đối diện phải được nhìn thấy. Trong trường hợp chiều rộng cung hàm có tầm quan trọng đáng kể, răng cửa bên đối diện và răng nanh sẽ xuất hiện trong hình thu được. Lặp lại giao thức ở phía đối diện.

c) Răng hàm trên có nền tương phản (Hình 10l)

Tương tự như kỹ thuật chụp khớp cắn từ phía trước, kỹ thuật này nên được thực hiện với dụng cụ banh môi, làm lộ nướu của tất cả các răng hàm trên và có thể được thực hiện khi người chụp ở phía trước đối với bệnh nhân hoặc phía sau họ. Khác với lần trước, trong lần chụp với nền tương phản này, nền đen nên được đặt giữa cả hai cung răng của bệnh nhân, càng xa răng trước trên càng tốt, để tránh việc nhìn thấy bất cứ thứ gì khác ngoài răng và nướu của hàm trên.

Hình ảnh này rất quan trọng để đánh giá:

• nguyên tắc thẩm mỹ nướu:

• đường viền nướu; và

• điểm cao nhất của nướu (Hình 18a); và.

• nguyên tắc thẩm mỹ nha khoa:

• độ nghiêng trục (Hình 18b);

• vị trí và cách sắp xếp răng (Hình 18c); và

• tỷ lệ chiều rộng / chiều dài (Hình 18d).

Trong cuộc hẹn, cần phải lấy các số đo thực tế của khuôn mặt và răng với sự hỗ trợ của thước cặp cơ học hoặc kỹ thuật số, tức là khoảng cách giữa hai hàm, chiều rộng miệng, chiều rộng của nụ cười, chiều rộng và chiều dài của răng cửa giữa và chiều rộng của sáu răng trước. Dựa trên các phép đo này và các nguyên tắc thẩm mỹ đã được thiết lập, có thể xác định các kích thước tối ưu mới, cho phép tạo ra các kích thước răng phù hợp cho bệnh nhân này, theo một phân tích cá nhân, chứ không phải từ các mẫu phổ biến của dân số (Hình 19). Do đó, việc lập kế hoạch phục hồi thẩm mỹ trở nên cá nhân hóa, dựa trên kích thước cụ thể của bệnh nhân.

Một yếu tố liên quan trong việc lập kế hoạch phục hồi thẩm mỹ là xem xét sự khác biệt giữa kích thước của răng với chiều rộng giải phẫu thực tế và chiều rộng nhìn thấy bằng mắt của chúng.

Khi được đo trực tiếp trong miệng và khi đo bằng cách sử dụng chụp ảnh kỹ thuật số, răng có các kích thước khác nhau, đặc biệt là về chiều rộng, vì hình ảnh phía trước của bệnh nhân không trùng với hình ảnh phía trước của nha khoa. (Hình 20) Điều này xảy ra do độ nghiêng của răng, hình dạng của cung răng, sự xoay của răng và bất kỳ sự chồng chéo nào có thể xảy ra giữa một răng với một răng khác. Do đó, khi tính toán kích thước răng tối ưu từ khoảng cách giữa 2 đồng tử và xem xét tất cả các tham chiếu thẩm mỹ khuôn mặt, các giá trị thu được cho chiều rộng của răng không thể được đặt trực tiếp trên ảnh chụp phía trước khi cười. Từ góc nhìn của bệnh nhân, răng duy nhất ở úng vị trí giải phẫu phía trước là răng cửa giữa; khi chúng ta di chuyển về phía các răng sau, các răng khác sẽ bị quay trên cung hàm, tạo ra hiệu ứng giảm chiều rộng nhìn thấy của chúng. (Hình 21a-b) Vì lý do này, lập kế hoạch kỹ thuật số nên được sử dụng một cách thận trọng và nó phải được giải thích cho bệnh nhân để không tạo ra một trình bày sai lầm về kết quả thực tế. (Hình 22)

d) Ảnh với Bảng so màu (Hình 10 m)

Để ghi lại màu thích hợp cho răng của bệnh nhân trong quá trình điều trị và đặc biệt là để giao tiếp với lab, nên chụp ba bức ảnh sử dụng một bảng so màu đặt bên cạnh răng: một trong ảnh khi cười, một trong ảnh khớp cắn có dùng cây banh miệng và một với cây banh miệng và nền tương phản khi chụp ảnh. Thanh so màu phải được đặt theo phương thẳng đứng so với răng trong cùng một mặt phẳng nằm ngang với răng cửa giữa, hoặc càng gần mặt phẳng này càng tốt, không bị nghiêng, để loại bỏ bất kỳ sự thay đổi nào có thể có về lượng ánh sáng nhận được, điều này sẽ gây ra các biến thể trong ghi lại màu sắc.

e) Khớp cắn hàm trên (Hình 10n)

Những bức ảnh khớp cắn luôn được chụp thông qua phản xạ hình ảnh, với những tấm gương chất lượng cao nhất. Đối với ảnh này, điều thú vị là tăng khẩu độ (để giảm giá trị f-stop từ 14 xuống 16), vì khả năng của đèn flash chiếu sáng vùng được chụp là nhỏ hơn, vì nó là ảnh phản chiếu. Ngoài ra, vì tất cả các răng đều nằm trên cùng một mặt phẳng, nên độ mở khẩu trung bình đủ để toàn bộ mặt phẳng nhai được chụp rõ ràng. Giữ cho gương trong suốt với sự hỗ trợ của một luồng khí nhẹ, phần sau của gương càng xa răng cối lớn càng tốt, các răng cần quan tâm phải được nằm trong ảnh, với toàn bộ cung răng được đặt ở trung tâm của bức ảnh, và với miệng của bệnh nhân càng mở rộng càng tốt.

Góc gương nên được bố trí sao cho hình ảnh phản chiếu tạo điều kiện chụp càng vuông góc với bề mặt khớp cắn của răng càng tốt, giúp tăng cường khả năng xem trước kích thước và hình dạng của các đường vòng lớn nhất. Bệnh nhân nằm nghiêng một phần, ngửa đầu ra sau sẽ giúp ích khi tiến hành chụp ảnh khớp cắn hàm trên. Ngoài gương, cũng phải dùng dụng cụ banh môi để loại bỏ môi ở góc nhìn từ các răng trước, sao cho có thể nhìn thấy khoảng một phần ba bề mặt phía ngoài của các răng này từ góc nhìn khớp cắn. Để hình ảnh có độ sâu trường ảnh tốt, bạn nên focus vào khớp cắn của răng cối nhỏ.

f) Khớp cắn hàm dưới (Hình 10o)

Tương tự như kỹ thuật chụp hình khớp cắn hàm trên, dụng cụ banh môi và gương cũng được sử dụng, và cài đặt khẩu độ giống hệt nhau. Quan trọng nhất khi chụp ảnh này là thể hiện sự ôm sát của môi với các răng trước như thể chúng đang được quan sát từ rìa cắn, đảm bảo rằng góc nghiêng của gương không tạo ra một bức ảnh chụp về mặt lưỡi hoặc mặt ngoài của răng quá nhiều, làm giảm khả năng quan sát hình dạng và kích thước của các dường vòng lớn nhất.

Giao thức chụp ảnh là không cố định; Nó có thể và nên được điều chỉnh theo nhu cầu của các nhà chuyên môn và thợ chụp ảnh, với việc loại bỏ hoặc bổ sung các bức ảnh, di cùng mục tiêu tối ưu hóa sự giao tiếp và ưu tiên độ chính xác của kết quả. Quan trọng nhất là chuẩn hóa việc thu thập và lưu trữ hình ảnh để so sánh và quan sát sau này, để tạo điều kiện giao tiếp với bệnh nhân và phòng lab, đồng thời tạo ra một bộ ảnh theo từng trường hợp có thể được sử dụng trong các lớp học, hội nghị và nghiên cứu.

Tóm lại, Nha khoa hiện đại ngày nay đòi hỏi phải có được những hình ảnh chất lượng cao, đòi hỏi sự đầu tư và tập luyện thích hợp. Lập kế hoạch phục hồi chức năng thẩm mỹ là một công cụ phục vụ như một cách khác để tối ưu hóa giao tiếp giữa bác sĩ lâm sàng, bệnh nhân và phòng lab, nhằm giảm thiểu những sai lệch trong kết quả. Nó phải là cơ sở để wax-up tốt và thực hiện mock-up. Cuối cùng, điều này sẽ dẫn đến hình dung ba chiều về kế hoạch điều trị được đề xuất.

Nguồn: Cardoso, P. de C., & Decurcio, R. (2018). Ceramic Veneers: contact lenses and fragments (1st ed.). Ponto Publishing Ltd.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *